George Steiner: The Writer and Communism| Nhà văn và Cộng

zivago.jpg

Ảnh trên internet.

Tự khuôn mình vào việc chống-cằm-ngồi-đọc và hạn chế tối đa [việc đọc, biết về, nghe ngóng, tham dự ] những bình luận, nhất là những bình luận trên mạng xã hội – bởi nếu ngôn ngữ mang tiềm năng gây chia rẽ cũng ngang ngửa như tiềm năng hàn gắn, thì cách mà tôi nghĩ và muốn lúc này là nhìn vào từng việc của mình, làm từng việc một, người đọc- đọc, người viết -viết, người dịch -dịch,… rút lui khỏi những cãi vã không giúp mở ra đối thoại. Tôi đọc cuốn Language & Silence của George Steiner những ngày này, thấy việc hiểu đúng một chữ, viết đúng một cái tên cuốn sách hay một nhân vật… cũng đòi hỏi nhiều công sức và nhìn nhận, với tôi, không thể chỉ vừa nhìn mà có thể bình luận, dù like hay dislike. Tôi vẫn muốn kiên trì một ý nghĩ như thế — bày ra những việc làm, những sự quan sát, những ngôn ngữ của trải nghiệm và ngẫm nghĩ, không cầu mong gì ngoài chính sự bày ra được đó đã, đừng bao giờ để một từ “được-bị [phần-tưởng-giải-[thưởng (dù bất cứ nghĩa nào) bận tới một mảy may.  Đó không phải là sự bất chấp. Với tôi, đó buộc phải là một thái độ tự trọng với mọi công việc trên đời, và nhất là những thứ liên quan tới chữ nghĩa. Khả năng kết nối của ngôn ngữ nằm ở chỗ bất khả dụng của nó, ở những đòi hỏi về sự vô cầu, hay sự cầu cái vô cầu. Một người làm, người viết, người quan sát, mọi sự với tôi vẫn là câu chuyện nàng li-dơ dệt tầm ma đó [cũng chắc gì hóa giải bùa phép phù thủy cho bầy thiên nga được, và ai biết đâu số phận một người khác nào đó ngoài ta nằm trong cái lưỡi của mình?] Nên không phải nói thay, nói hộ, nói ra, nói vào, mà nếu dùng ngôn ngữ, sẽ chỉ là nói-viết-im lặng, là mỗi người một khả thể nói-viết-im lặng được bày ra, và tôi sẽ hồi đáp – nếu được nghe, nếu được nói cho nghe – trước hết bằng khoảng cách và im lặng [cầu nguyện].

Lâu rồi mới có cảm giác đó – muốn dịch các tiểu luận để đọc, nghĩ  và học-đọc [trong đó với tôi còn-luôn là bài học tiếng Việt bằng việc dịch], để cân bằng và rút vào bên trong. Bản dịch tiểu luận này chỉ là đang vừa dịch vừa đọc, nên sẽ được thêm vào và sửa sang dần [tức là chậm lắm]- và tôi sẽ để kèm các ghi chú, cân nhắc, hoặc bàn luận trong ngoặc vuông. 

****

Nhã Thuyên dịch [nháp] từ The Writer and Communism (1961), từ cuốn sách Language & Silence, Essays on Language, Literature and The Inhuman (George Steiner, ấn bản của Atheneum New York, 1986). P.356-365. [Xong bản nháp 25 April]

[Nhà văn và Chủ nghĩa Cộng sản]

Nhà văn và Cộng

 

Một trong những khác biệt đáng kể giữa Chủ nghĩa Phát-xít và Chủ nghĩa Cộng sản là điều này: không một nghệ phẩm lớn nào được truyền cảm hứng từ chủ nghĩa phát xít. Với khả thể ngoại biệt là [nhà văn và phê bình gia Pháp] Montherlant, không một nhà văn hạng nhất nào bị hút vào vòng ảnh hưởng của nó cả. (Ezra Pound không phải là một nhà phát-xít; ông sử dụng các trường hợp và các bẫy của Chủ nghĩa Phát-xít cho chính [tính toán] kinh tế học kì quặc của mình.) Chủ nghĩa Cộng sản, trái lại, là tâm lực trong rất nhiều những áng văn chương hiện đại hay nhất; và sự va chạm cá nhân với Chủ nghĩa Cộng sản đã trở thành điểm mốc ý thức và sự nghiệp của rất nhiều nhà văn chủ chốt thời đại này.

Tại sao có khác biệt này? Không ngờ gì nữa, Chủ nghĩa Phát xít là một ý thức hệ quá sức vô đạo và cực độ tàn nhẫn, khó có thể tạo ra những tác phẩm nhân ái của trí tưởng tượng, vốn là thiết yếu với nghệ thuật văn chương [haiz]. Chủ nghĩa Cộng sản, cả khi đã phát độc, là một huyền thoại về tương lai loài người, một viễn kiến về khả năng con người giàu có trong những đòi hỏi đạo đức. Chủ nghĩa Phát xít là một mã cuối kết của du côn; Chủ nghĩa Cộng sản bại vì nó tìm cách o ép tính chất số nhiều mong manh của bản chất người và tạo nên lý tưởng giả tạo [giả tạm] về các mục đích lịch sử và tự từ khước [vỡ mộng]. Chủ nghĩa Phát xít tàn ngược bằng sự coi thường con người; Chủ nghĩa Cộng sản tàn ngược bằng sự tán dương con người, đặt trên phạm vi của lỗi lầm riêng, tham vọng riêng và tình yêu riêng mà ta gọi là tự do.

Cũng có một khác biệt đặc thù hơn. Hitler và Goebbels là những kẻ áp chế ngôn ngữ quỷ quyệt; nhưng họ không mấy trân trọng đời sống trí óc. Chủ nghĩa Cộng sản, ngược lại, là một thứ tín ngưỡng được thẩm thấu từ chính khoảnh khắc của nguồn gốc lịch sử của nó bằng cảm giác về các giá trị tri thức và nghệ thuật. Ở Marx và Engels, cảm giác này rất rõ rêt. Họ là những trí thức tận lõi. Lenin dành cho nghệ thuật lời ngợi khen siêu việt từ nỗi sợ; ông che chắn khỏi nghệ thuật, thừa nhận những quyền uy tăm tối dẫn lối của các hình thức âm nhạc và kiến trúc vượt ra khỏi tri thức duy lý. Trotsky là một người văn, a littérateur, trong nghĩa chói lọi [sặc sỡ] nhất của từ này. Ngay cả dưới thời Stalin, nhà văn và tác phẩm văn chương vẫn đóng một vai trò thiết yếu trong chiến lược Cộng sản. Các nhà văn bị bức hại và giết bỏ chính xác là vì văn chương được công nhận là tiềm tàng uy lực hiểm yếu. Đây là một điểm quan trọng. Văn chương đã được vinh danh [sic], theo cách thức tàn bạo hay đầy biến thái, bằng chính sự thực về bất[bội] tín của Stalin. Và khi tình trạng tan băng từng phần diễn ra, vị trí của nhà văn trong xã hội Xô Viết một lần nữa trở nên phức tạp và rối rắm. Người ta không thể tưởng được chuyện một chính thể Phát-xít bị lung lay chỉ vì một cuốn sách; nhưng Bác sĩ Zhivago đã là một trong những tiếng đoạn trường trong đời sống giới trí thức gần đây ở nước Nga Cộng sản. [G.S viết bài này năm 1961]

Dẫu là từ bản năng hay trầm tư, các nhà văn luôn ý thức về vị trí đặc biệt của họ trong ý thức hệ Cộng sản. Họ đã nghiêm túc [trang] để tâm tới [hướng về] Chủ nghĩa Cộng sản bởi vì nghiêm túc[trang] để tâm [lưu tâm] họ. Bởi vậy, một lịch sử các quan hệ giữa Chủ nghĩa Cộng sản và văn chương hiện đại là, trong những điểm thiết yếu nào đó, một lịch sử của cả hai [thứ].

Ông Juergen Ruehle là một trong những người bảo bọc các nhà văn và các trí thức đã từng trải nghiệm sự quyến dụ khó cưỡng của Chủ nghĩa Cộng sản rồi tan vỡ và rời bỏ hiện thực thời Stalin. Từ khi tị nạn Tây Đức, ông tự gây dựng thành một sử gia chuyên biệt và người quan sát đời sống sân khấu và văn chương Cộng sản. Trong cuốn sách Literatur und Revolution [Văn chương và Cách mạng] ông khởi sự hành trình viết về một lịch sử của “nhà văn và Chủ nghĩa Cộng sản” toàn thế giới trong thời kì từ 1917 tới 1960. Đó là một [phận sự] mạo hiểm lớn và vươn rộng: trải khắp văn chương Nga từ Blok tới Zhivago; nhìn nhận thơ Pablo Neruda và hư cấu Erskine Caldwell; đi qua, từ thảo luận về tính chính trị của Thomas Mann tới phê phán về Lu Hsun. Được trang bị [trí] với một thư mục và bảng biểu theo trình tự thời gian, Literatur und Revolution vừa là tiểu luận phê bình vừa là một công trình tham chiếu. Và chỉ cần nhìn thoáng qua bảng chỉ dẫn và các minh họa đã thấy hầu như không một nhà văn chủ chốt [lớn, đại, trọng yếu..] nào trong thời đại của chúng ta [our time] (Proust, Joyce và Faulkner là những ngoại biệt lẫy lừng) không từng bị Chủ nghĩa Cộng sản va-chạm trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời và nghệ thuật của họ.

Phần đầu cuốn sách xoay quanh định mệnh [thân phận] của văn chương Nga dưới thời Lenin, Zhdanov, và Khrushchev. Phần này bao quát một nền tảng quen thuộc nhưng trọng yếu. Một lần nữa ta quan sát lại thiên tài xuất chúng và kết cuộc cay đắng của bộ ba nhà cách mạng: Blok, Yessenin, Mayakovsky. Ruehle đặc biệt thú vị khi viết về chủ đề của cuốn tiểu thuyết nặng nề bị bỏ xó của Gorky, Kim Samgin. Ông tranh luận đầy thuyết phục rằng Gorky không thể hoàn thành tác phẩm bởi đã nhận thấy [dự cảm] sự xung đột giữa cuộc sống cá nhân và tổ chức Cộng sản, điều đã đẩy quá nhiều nhà văn Xô Viết tới chỗ câm lặng hoặc cái chết. Ruehle tiếp tục thảo luận về các sử gia biên niên của cuộc nội chiến, Isaac Babel và Sholokhov. Một lần nữa, ở đây, sự đọc của ông thật sắc bén: ông chỉ ra Sholokhov đã luôn là một nhà địa phương chủ nghĩa, a regionalist [một-người-của-vùng-miền] của một kiểu phản tri thức cổ xưa, một nhà văn thành công ở chỗ mang giọng kép của cả quan điểm có tính chất quốc gia lẫn tính chất Stalin. Ông đưa ra một giải thích hợp lý về những trốn tránh lắt léo và sự bạo gan [những là mặt dạn mày dày] đã giữ cho Ehrenburg sống qua mùa đông và thời kì tan băng. Và bên dưới những tự sự dày đặc của những sự nghiệp cá nhân và các tác phẩm dường như là những mẫu họa [motif] khắc nghiệt-ngã của lưu đày, hành quyết hay tự sát.

Cuối cùng, Ruehle đến với Pasternak. Ông thấy ở Pasternak giọng Nga đích thực, một viễn kiến sẽ vượt qua những chuyên chế của khoảnh khắc hiện tại. Ông đồng ý với Edmund Wilson trong việc nhìn thấy ở Lara và Zhivago một thách thức không lời đáp đối với chủ nghĩa lịch sử và thuyết quyết định luận từ khước cuộc đời của ý thức hệ Cộng sản. Sự thật trần trụi rằng Pasternak ủ ấp tình yêu nổi loạn riêng của họ trong khi vẫn ở lại được bên trong Liên bang Xô Viết chứng minh tinh thần Nga ấy vẫn sống [động] dưới lớp vỏ băng của nguyên lý đảng. Pasternak nằm trong số những người đầu tiên đọc bài thơ vĩnh quyết mà Yessenin lấy máu mình để viết. Pasternak đã biết những lời ghi tự vẫn nổi tiếng của Mayakovsky [Trần Dần]. Nhưng với phẩm chất can đảm và sự thận trọng, ông sống sót. Và trong Bác sĩ Zhivago, ông vẽ ra bản cáo trạng chống lại sự coi thường Xô Viết đối với đời sống cá nhân mà những nhà thơ bè bạn ông đã bóng gió ra dấu trong cách thức [chọn lựa] bi kịch của những cái chết của họ.

Điều này tiết lộ nhiều sự thật, và Ruehle diễn đạt chuyện đó rất giỏi. Nhưng không sống ở Liên bang Xô Viết gần đây, ông không thể nhận ra thế giới của Lara và Zhivago đã trở nên xa xôi thế nào trong những hình dung và cảm giác của thế hệ trẻ hơn hiện thời. Chính là những nhà làm luật, những người già hơn, sợ hãi cuốn sách và muốn đẩy nó vào câm lặng. Tôi băn khoăn liệu những người trẻ còn thấy gì ở Bác sĩ Zhivago ngoài một câu chuyện cổ tích cảm động sâu sắc, hay một mảnh hư cấu lịch sử xa xôi như Anna Karenina vậy.

Phần thứ hai của Literatur und Revolution nhìn chung vẫn là phần giá trị nhất. Phần này xử lý đầy thuyết phục [có thẩm quyền, uy lực…] những mối quan hệ rối rắm giữa Chủ nghĩa Cộng sản và văn chương Đức. Không phải quá lời khi nói hầu như không một nhà văn Đức nào đáng chú ý kể từ 1919 lại không đưa ra một quan điểm rõ ràng, dù là tích cực hay đối kháng, về Chủ nghĩa Cộng sản. Có một hấp lực mãnh liệt [nghĩa nặng tình sâu] giữa chủ nghĩa lịch sử cùng chủ nghĩa lí tưởng hóa có tính hệ thống của ý thức hệ Marx và tinh thần Đức từ điểm khởi nguồn. Thường là, như Ruehle chỉ ra, cực tả và cực hữu gặp nhau ở Đức trên nền [mặt đất] chung của thiên kiến toàn trị. Hiệp định Hitler-Stalin, dẫu phỉnh phờ và vắn số, đã như là một dụ ngôn của một mối quan hệ thành thật.

Ruehle xuất sắc trong những biện giải về Johannes Becher, Orpheus của chủ nghĩa Stalin, và về Egon Erwin Kisch, một kí giả tài năng bậc nhất từng phục vụ cho động lực học thuyết Marx. Ông mở ra một sự đọc bén nhạy với các tác phẩm của Anna Seghers, chỉ rõ những tiểu thuyết gần đây của bà phản bội những giằng xé của một nghệ sĩ thành thật như thế nào khi cố gắng hòa giải [chấp nhận] với những nửa-sự thật xám màu của “hiện thực xã hội của nghĩa.” Ông soi rọi vai trò của các ý tưởng theo học thuyết Marx trong hư cấu lịch sử của Heinrich Mann và Lion Feuchtwanger. Ông gợi dẫn, trong chương viết được làm tư liệu cẩn thận, rằng những bất đồng giữa Heinrich và Thomas Mann đại diện cho một biện chứng lớn hơn: đối kháng của tư duy Đức với những rù quyến, liên đới nhưng đối lập với nó, của chủ nghĩa quốc gia cánh hữu ở mặt này và chủ nghĩa quốc tế cấp tiến ở mặt kia.

Như trong phần viết về văn chương Xô Viết, chảy bên dưới lớp tự sự của các đời sống cá nhân là chủ đề thường trực về cái chết bạo lực. Hết người này tới người khác, những tiếng nói của thơ, kịch và phê bình Đức ngộp thở trong lưu đày, giết chóc, lẫn tự sát. Đọc cuốn lịch của phá hủy này – Ossietzky, Mühsam, Kornfeld, Theodor Wolff, Friedell, Toller, Hasenclever, Ernst Weiss, Stefan Zweig – người ta nhận ra quả thật văn chương là thứ việc hiểm nguy bậc nhất.

Sau phần nghiên cứu điêu luyện này về văn chương Đức, Literatur und Revolution tiếp tục điều tra mảng còn lại của văn chương thế giới. Bước đi này có hơi chóng mặt. Chỉ trong ba mươi trang, Ruehle thảo luận ảnh hưởng đa tạp của Chủ nghĩa Cộng sản lên Camus, Sartre, Gide, Malraux, Eluard, Céline, và Aragon. Hai mươi trang tiếp theo gom vào các nhà văn Ý – Silone, Pavese, Malaparte, Moravia, Carlo Levi. Dưới bốn mươi trang nữa là cho những vờn vẽ rối mù [ái ân ta có ngần này mà thôi] với các giấc mộng Cộng sản và học thuyết Marx của các nhà văn Mỹ như Dos Passos, Upton Sinclair, Steinbeck, Hemingway, và James T. Farrell. Những chương ngắn cuốn người đọc lướt qua Mỹ Latinh và châu Á. Một cách thiết yếu, phần sau này của cuốn sách có xu hướng trở thành bản danh mục các tên gọi, ngày tháng và nhan đề – hữu ích cho những tham chiếu vội, nhưng là nghèo nàn quá với sự đa dạng và phức tạp của chủ đề.

Trong hai chương khép lại cuốn sách, Ruehle nghiên cứu [xử lý, xoay xỏa] những tông đồ và những tên phiến loạn quan trọng trong trại văn chương Marxist. Ông thảo luận Darkness at Noon [bản dịch tiếng Việt Vòng tròn ma thuật của Phạm Nguyên Trường, Giấy Vụn] của Koestler, 1984 [cũng Phạm Nguyên Trường dịch, Giấy Vụn] của Orwell, và những hồi kí sầu thảm của Gide và Stephen Spender. Cuối cùng, ông ghi lại cuộc nổi loạn chống lại chủ nghĩa Stalin của các nhà văn trẻ Hung và Balan vào năm 1956. Trong suốt thời kì đàn áp tiếp đó ở Hung, Tibor Dery đã bị kết án vì dẫn dắt “một tổ chức thù địch nhà nước.” Lời đùa cợt tàn nhẫn về chuyện này ở Budapest: tổ chức đó có thể là gì? Trả lời: Nhân dân Hung. Và như trong phần khảo cứu yếu lược khép lại, Ruehle nhắc nhở ta về rất nhiều những nhà văn vẫn đang ở những nước vệ tinh Xô Viết, hay trong các nhà tù Trung Hoa. Liên minh văn chương và Chủ nghĩa Cộng sản vẫn vừa tha thiết vừa bi kịch.

Như một biên niên tốc ký trình bày những vật liệu rời rạc và cồng kềnh [đồ sộ] theo một trật tự sáng rõ, cuốn sách có được những phẩm chất lớn. Nhưng cũng Literatur und Revolution có nhiều hời hợt. Thường là, vấn đề nằm ở sự mỏng mảnh sơ lược (không thể chỉ với đôi trang giấy mà nói được gì mới hay khám phá được nhiều về một nhà văn quan trọng). Nhưng cũng thường là, vấn đề nằm ở những giả định chìm dưới của Ruehle dẫn lối cho sự đơn giản hóa. Suốt cuốn sách, ông nỗ lực thiết lập mẫu thức về sự hấp dẫn lí tưởng hóa ban đầu nối tiếp là nỗi chán ghét sáng rõ [sáng mắt sáng lòng]. Nhà văn bị hút vào những lý tưởng Cộng sản; hắn khám phá ra những hiện thực về sự quan liêu của đảng và những trấn áp kiểu Stalin; hắn vỡ mộng và rời bỏ. Những vị thần Đỏ ruồng hắn. Nhưng trong thực tế, mẫu thức này chỉ tương thích với một rất ít các nhà văn, và không phải ở những nhà văn quan trọng nhất. Bằng việc khư khư giữ ý đó, Ruehle có xu hướng vặn xoắn bằng cứ. Tôi đưa ra đây chỉ một vài ví dụ.

Trường hợp Malraux là một phép kiểm chứng cho suy tư của một nhà phê bình về những sự quyến rũ mà chủ nghĩa toàn trị dành tặng cho tài thơ. [Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi]. Biện giải của Ruehle về bước ngoặt hướng tới và rời khỏi Chủ nghĩa Cộng sản của Malraux là hoàn toàn thiếu hụt. Cho dù không ngừng chiến đấu trong liên minh, với cánh tả và với cánh hữu, bỏ làm quân trong Lữ đoàn Quốc tế để chui vào tủ áo của tướng de Gaulle, Malraux chưa bao giờ chăm nuôi một chương trình chính trị nhất quán. Bất kể hướng về lĩnh vực nào, ông luôn theo đuổi những gì thuộc về tính chính trị của chủ nghĩa anh hùng, bạo lực và sự trung thành đầy âm mưu. Nói ngắn gọn, tính chính trị của ông chính là thẩm mỹ; chính thẩm mỹ là khuôn dạng chính thức của hành động chính trị đã thu hút Malraux, chứ không phải cái nội dung. Manh mối này trong toàn sự nghiệp của Malraux có thể tìm thấy trong quan sát của Walter Benjamin, rằng những người đã lấy [đào mỏ] chính trị để mà làm nghệ thuật sẽ luôn kết thúc trong cách tiếp cận có tính chất toàn trị hoặc đặc tuyển – dù là tả hay hữu. Ruehle không thấy điều này và thậm chí không nhắc tới Benjamin, nhân vật độc đáo và sâu sắc hơn cả trong những nhà phê bình theo học thuyết Marx.

Hay lấy trường hợp Orwell. 1984 không phải, như Ruehle hời hợt khẳng định, một ngụ ngôn về quy tắc toàn trị của Stalin, Hitler và Mao Trạch Đông. Tranh biện về ngụ ngôn này không hề mạch lạc. Phê phán của Orwell đồng thời hướng về nhà nước cảnh sát và về xã hội tiêu dùng tư bản, với sự mù chữ về các giá trị và tương hợp của nó. “Tân ngữ,” (Newspeak) ngôn ngữ của cơn ác mộng của Orwell, vừa là biệt ngữ của chủ nghĩa duy vật biện chứng vừa là ngoa ngôn của quảng cáo thương mại và truyền thông khối. Sức mạnh bi kịch của 1984 khởi nguồn chính xác là từ sự chối bỏ nhìn mọi thứ chỉ đen và trắng của Orwell. Chính xã hội tiền trao cháo múc của chúng ta làm ông kinh hồn táng đởm. Ông đã ghi chú trong đó những mầm bệnh của vô nhân so sánh được với những bệnh dịch địa phương của học thuyết Stalin. Orwell trở lại từ Catalonia với một kiểu niềm tin khắc kỉ, ảm đạm về một chủ nghĩa xã hội nhân văn mà cả Đông lẫn Tây đều không sẵn sàng đón nhận được gì ngoài một thứ tỉ lệ giới hạn nhất. Làm cho 1984 trở thành một pamphlet, một tập sách nhỏ đóng vội trong cuộc chiến tranh lạnh về trí thức là đọc nhầm/ lệch và làm mỏng dẹt cuốn sách. Dụ ngôn thực sự về xã hội Xô Viết trong tác phẩm của Orwell là Animal Farm [Trại súc vật – của Phạm Nguyên Trường, Chuyện ở nông trại – của An Lý]

Sự ngần ngại tương tự cho phép những phức hợp [biến chứng] của sự thật ảnh hưởng tới phân tích của Ruehle về Lorca. Dù với khẳng quyết đầy tự tin của Ruehle, những hoàn cảnh xoay quanh cái chết của Lorca vẫn là đánh đố. Có thể ở đây yếu tố tư thù cũng dự cuộc nhiều như một khủng bố chính trị. Hoặc để đưa thêm một ví dụ nữa, điều hấp dẫn về nhà văn trẻ Ba Lan Hlasko không phải nằm ở sự thực rằng anh nhận ra Ba Lan Cộng sản ngột ngạt và kiếm tìm tự do ở trời Tây, mà ở chỗ anh sau đó đã nhận ra “thế giới tự do” hầu như cũng khó mà chịu đựng nổi, cũng ngang ngửa như thế. Văn chương là một cuộc truy tìm mơ hồ, phức hợp; nó không thường tự nhiên rơi vừa những đường biên chật chội của Cộng hay chống-Cộng mà Ruehle tìm cách áp đặt lên.

Nhưng đây [vẫn] là những sự cãi bướng. Một lỗi thiết yếu hơn ở Literatur und Revolution là Ruehle từ khước phân biệt [học thuyết] Marx và Cộng, hay chính xác hơn, giữa Chủ nghĩa Cộng sản như một viễn kiến đạo đức và Chủ nghĩa Cộng sản như một hiện thực chính trị quan liêu. Ở nước Nga Stalin và các nước vệ tinh, sự phân biệt này đã bị xói mòn. Nhưng ở nơi khác, với lòng trân trọng những nhà văn phương Tây rơi vào vòng ảnh hưởng Marxist, sự phân biệt này là quan trọng. Liên tục, Ruehle bỏ cùng rọ những nhà văn có thể xem là các nhà Cộng sản một cách tương đối công bằng và những nhà văn đã rút tỉa từ học thuyết Marx về lịch sử và sự phân tích Marxist về vật chất điều khiển xã hội cho nghệ thuật của họ. Người ta không thể nói như nhau về Howard Fast và Romain Rolland. Sự khác biệt là quá lớn.

Nghiêm ngặt mà nói, không nhiều nhà văn đáng kể nằm ngoài Liên bang Xô Viết đã dùng nghệ thuật của họ để chủ ý phục vụ [dịch/tùng] Đảng Cộng Sản hay chính sách của Xô Viết. Becher, Aragon, Anna Seghers, Fast – danh sách này không dài. Danh sách ấy chắc chắn không bao gồm hầu hết những nhà thơ, tiểu thuyết gia và kịch tác gia quan trọng mà Ruehle bận lòng tới.

Những gì Feuchtwanger và Heinrich Mann thu được từ học thuyết Marx là cảm thức về áp lực vật chất và  mật độ đậm đặc của sự thực lịch sử. Sartre rút từ học thuyết Marx cả sự hỗ trợ lẫn đối nghịch sáng tạo với tầm nhìn cực kỳ cá nhân của ông về khủng hoảng và lịch sử. Ở Sean O’Casey, Chủ nghĩa Cộng sản chưa bao giờ là cái gì khác ngoài tiếng la hét anh hùng rơm/quixotic tào lao vô chính phủ một cách thiết yếu của một thói đa cảm Ai-len chống lại bất công xã hội. Ở Malaparte, Chủ nghĩa Cộng Sản là kiểu đùa cợt riêng với nhau, mặt nạ của Sự Lãng Mạn trầm trọng mà bạo liệt. Với Pablo Neruda, ý thức hệ Cộng sản là lời hứa hẹn về chốn không tưởng hận thù. Mỗi trường hợp một khác.

Hơn thế, có sự khác biệt sắc nét giữa những người vỡ mộng với học thuyết Marx và những người thực sự dứt tình [rời bỏ] Đảng. Trong hầu hết các trường hợp, sự tan vỡ với Đảng dẫn tới câm lặng hoặc Hollywood. Một rút lui khỏi học thuyết Marx, mặt khác, vẻ như là một quá trình hà hơi thổi ngạt [làm sống lại], làm cho trí tưởng tượng của nhà văn bầm dập nhưng sống [sót]. Bởi vậy, trong đời những nhà văn như Camus, Steinbeck, hay Silone, học thuyết Marx đóng vai trò giải phóng. Thậm chí cả khi họ đã xoay lưng lại với nó, vẫn còn đó trong tài năng của họ những sự chính xác đặc thù nào đó của suy tư và những nếp phản kháng đạo đức.

Và bởi Ruehle từ chối phân biệt những luân lý Marx theo phái Hegel và các thực hành Cộng sản, ông thất bại trong việc ghi chú nguồn ảnh hưởng sâu sắc của các ý tưởng Marx trong mỹ học và lý thuyết văn chương phương Tây. Dẫu là hiển lộ hay vô thức, quan điểm tổng thể đương thời của chúng ta về nghệ thuật được thẩm thấu với nhận thức về văn cảnh xã hội và các động năng lịch sử kiểu Marx. Thậm chí thói trữ tình nhất của “các nhà phê bình mới” cũng nợ nần truyền thống Marx sự nhận ra nào đó về milieu, trường xã hội và kinh tế nằm phía sau phong cách thi ca. [câu này tạm dịch] Thực thế, có thể chính là trong mỹ học, hơn là trong văn chương thực thụ, học thuyết Marx đã làm móng chắc chắn hơn cả. Nhưng Ruehle hầu như không hề nhắc tới ba nhà phê bình, những người này, cùng với Lukács, đã mang tới phương Tây điều giàu có nảy nở nhất trong quan điểm Marx về nghệ thuật: Walter Benjamin, Lucien Goldman, và Edmund Wilson.

Và khi ta đặt cuốn sách ăm ắp thông tin nhưng một chiều này xuống, một câu hỏi lớn thiết yếu trỗi lên trong óc. Khi nào học thuyết Marx và Chủ nghĩa Cộng sản là thiết yếu cho quá trình hiện thực hóa một tài năng cá nhân? Khi nào chỉ là chuyện ngẫu nhĩ? Có phải chúng ta thừa nhận sự đối kháng của văn chương và Chủ nghĩa Cộng Sản đã làm nên những tác phẩm bậc thầy mà nếu không có [va chạm ấy] chúng sẽ không thể được tựu thành? Cả khi chúng ta đặt qua một bên thơ Nga thời kì 1917-1925, tôi nghĩ, vẫn có một vài.

Hai trong những đại diện tiêu biểu nhất của tiểu thuyết hiện đại, Man’s Fate [Thân phận con người]của Malraux và Darkness at Noon của Koestler, mọc ra trực tiếp từ ảnh hưởng của phong trào Cộng sản lên cuộc đời và tưởng tượng của nhà văn. Tuy nhiên, các tiểu thuyết này vẫn đầy giá trị, bởi vì chúng nhận ra trong Chủ nghĩa Cộng sản chiến binh sự cùng tồn tại của cao quý và ác quỷ. Nếu, trong các chuỗi hành động của Đảng, người ta thấy sự tàn ác, quỷ quyệt, và những trấn áp nhẫn tâm các giá trị cá nhân, người ta cũng thấy tinh thần hi sinh, can đảm và một lòng tin sắt đá dữ dội vào khả năng sống và chết cho tư tưởng của con người. Không có học thuyết Marx và sự tuân thủ kiên định kì quặc với ý thức hệ [đường lối] Đảng, nhà biên kịch hạng nhất của thời đại này, Bertolt Brecht, có thể sẽ không tìm được giọng và phong cách của mình. Các vở Three-Penny Opera, Mahagonny Mother Courage là những kinh điển của giọng [kịch] hiện đại. Chúng đã chuyển thành các tích [tuồng] của cảm xúc chung; nhưng chúng có gốc rễ trong Chủ nghĩa Cộng sản riêng của Brecht và trong bối cảnh lịch sử của sự thất bại của trào lưu Cộng sản Đức. Đông Berlin là thành phố mà Brecht đã hướng tới, dẫu rụt rè thận trọng, suốt cuộc đời dài của mình.

Tương tự như vậy, vài áng thơ hay nhất của Aragon không thể tách lìa khỏi thế giới quan và hệ từ vựng của Chủ nghĩa Cộng sản. Cũng thế, trong một cảm thức nghịch lý nhưng quyết đoán, điều này đúng với Bác sĩ Zhivago. Người ta không thể hiểu được đến lõi cùng tác phẩm tràn ngập suy tư, thường là tự mâu thuẫn đó nếu không nhận ra Pasternak đã cùng chung chia sâu sắc thế nào những khổ đau và khát vọng của Cách Mạng Nga. Trong rất nhiều điểm, tiểu thuyết này là lời bào chữa cho một cuộc cách mạng thậm chí còn tổng thể và sâu xa hơn là cuộc cách mạng đã làm nên xã hội Xô Viết.

Ở những chỗ khác, học thuyết Marx hay các yếu tố Cộng trong tác phẩm nghệ thuật thường chỉ là một lớp sơn bề mặt hay một mã thuận tiện cho việc diễn đạt một thứ tinh thần cấp tiến cá nhân. Điều này chắc chắn hiển nhiên với các vở kịch của O’Casey và các bài thơ của Eluard. Thường thì nỗ lực của nghệ sĩ để phục vụ các nhu cầu hiện thời của ý thức hệ Đảng kết thúc bằng sự hiểu lầm có tính chất lật đổ: người ta nhớ lại Picasso, đã tìm cách vinh danh cái chết của Stalin như thế nào, khi vẽ một chân dung một chàng trai trẻ, mơ màng, với một vòm râu thời Victoria.

Cuối cùng, chính là câu hỏi khó khăn nhất về mối quan hệ giữa nghệ thuật và toàn trị. Lịch sử hướng dẫn ta rằng, dù ở thời La Mã của Augustus, Florence Phục Hưng, hay ở tòa án của Louis XIV, chính thể chuyên chế có thể sinh ra văn chương và nghệ thuật lớn. Những tay bạo chúa và các thi sĩ thường biết cách giao hảo (cả ở thời Stalin, có những dấu vết quái gở của mối quan hệ này – chứng thực cách đối-đãi của ông ta với Bulgakov và Pasternak). Nhưng một thứ chủ nghĩa tuyệt đối có thể đi xa đến độ nào trước khi nghệ thuật hóa kiếp nô lệ hay rơi vào im lặng? Ở chỗ nào ta vượt qua đường ranh giữa nghệ sĩ như người khám phá các lý tưởng về xã hội và người nghệ sĩ như là thợ tuyên truyền thuần túy? Cũng như đâu là điểm khác biệt giữa đoản ca của Andrew Marvell và các trường ca tán tụng Stalin và Ulbricht? Nếu cuốn sách của Ruehle không cung cấp một lời đáp, ít nhất nó cũng soi rọi nhiều ánh sáng giá trị lên bản chất của vấn đề này. Nhưng chủ đề đầy kịch thích và khẩn cấp này vẫn còn đó, chờ được xử lý.  

 

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s